Không con vật nuôi nào là không có bệnh cả, bạn đồng ý với tôi không? Thường trên những bài phỏng vấn, báo chí đều cho những thông tin trấn an đọc giả và người tìm hiểu để nuôi rằng con chim trĩ này rất khỏe nuôi không có bệnh tật gì cả và lợi nhuận thu về rất cao.
Một điều dám hứa với bạn đọc rằng bài viết này xuất bản không dựa trên những thông tin câu kéo, hoa mỹ, nuôi thu tiền tỷ mà chủ yếu nội dung bài này chia sẻ cho các bạn 9 loại bệnh sau thường gặp ở chim trĩ: Bệnh Newcastle ở chim trĩ, Bệnh tụ huyết trùng ở chim trĩ, Bệnh cầu trùng ở chim trĩ, Bệnh về đường hô hấp mãn tính (CRD: Chronic Respiratory Disease) của chim trĩ, Bệnh tiêu chảy do Ecoli ở chim trĩ, Bệnh đau mắt (sưng mắt) ở chim trĩ, Bệnh gumboro ở chim trĩ, Bệnh cúm gia cầm ở chim trĩ, Bệnh bạch ly ở chim trĩ.
Không dài dòng nữa nội dung hấp dẫn là thế mời bạn tham khảo qua.
Bệnh Newcastle ở chim trĩ
Đặc điểm bệnh: Bệnh Newcastle hay còn gọi là bệnh rù là một bệnh truyền nhiễm cấp tính lây lan mạnh với đặc điểm chủ yếu là gây xuất huyết, viêm loét niêm mạc đường tiêu hoá. Bệnh do một loại virut thuộc họ paramyxo gây ra.
Nguyên nhân: Bệnh lây chủ yếu qua đường tiêu hoá: do thức ăn, nước uống có mầm bệnh hoặc chim khoẻ ăn phải chất thải của chim bệnh. Bệnh còn lây trực tiếp qua da và niêm mạc. Sau khi xâm nhập vào cơ thể, nó qua niêm mạc hầu họng rồi vào máu gây nhiễm trùng máu.
Từ máu virut đi đến các cơ quan phủ tạng gây viêm, hoại tử. Thành huyết quản bị phá vỡ gây xuất huyết và thâm nhiễm dịch vào các xoang trong cơ thể.
Virut tác động gây rối loạn tuần hoàn và trung khu hô hấp làm cho con vật khó thở. Phần lớn chim nhiễm bệnh thường chết ở thời kỳ nhiễm trùng huyết.
Virut có nhiều chủng gây bệnh, tuỳ theo độc lực của chúng mà người ta xếp các chủng này vào các nhóm khác nhau:
- Nhóm Lentogene: Gồm những chủng không có độc lực hoặc độc lực thấp, có khả năng gây phản ứng nhẹ cho chim con mới nở như: Sổ mũi, hắt hơi. Đại diện của nhóm này là chủng Lasota, B1, F. Có thể sử dụng các chủng này đẻ làm giống gốc sản xuất vacxin phòng bệnh.
- Nhóm Mesogene: Gồm những chủng có độc lực vừa, có khả năng gây bệnh cho chim dưới 2 tháng tuổi, đặc biệt là chim dưới 6 tuần tuổi. Đại diện của nhóm này là chủng Mukterwar và chủng Herforshire. Có thể dùng các chủng này làm giống gốc để sản xuất vacxin phòng bệnh cho chim từ 2 tháng tuổi trở lên. + Nhóm Velogene: Gồm những chủng virut gây bệnh ngoài tự nhiên.
Triệu chứng bệnh:
- Chim ủ rũ, ăn ít, uống nước nhiều, lông xù, cánh xã như khoác áo tơi, chim bị sốt cao 42 – 43oC.
- Chim lờ đờ hắt hơi, vẩy mỏ liên tục thường kêu thành tiếng “toác toác”, thở khó trầm trọng có khi phải vươn cổ há mỏ ra để thở, từ mũi chảy ra chất nhớt. – Chim rối loạn tiêu hoá, thức ăn ở diều không tiêu, nhão ra do lên men.
- Khi dốc ngược thấy có nước chảy ra có mùi chua khắm.
- Vài ngày sau tiêu chảy phân có màu nâu sẫm, trắng xanh hay trắng xám. – Đối với chim đẻ trứng thì giảm đẻ rất nhiều, trứng nhỏ màu trắng nhợt.
- Tỷ lệ chết có thể lên đến 100%.
Phòng bệnh: Bằng vacxin theo quy trình, nếu đàn chim bị dịch, xác chim phải chôn rắc vôi hoặc đun chín kỹ, lông chôn sâu, khu chuồng nuôi và dụng cụ rửa sạch, rắc vôi sau đó phun sát trùng kỹ bằng hóa chất, để chuồng 1 – 2 tháng mới nuôi tiếp.
Điều trị: Không có thuốc đặc trị bệnh. Tuy nhiên phát hiện sớm thì dùng kháng thể gumboro tiêm 2 lần, mỗi lần cách nhau 3 ngày, nếu chim khỏe dần lên và không chết thì sau đó 7 – 8 ngày phải tiêm vacxin nhược độc Newcastle hệ 1 ngay theo đúng quy trình sử dụng vacxin.
Bệnh tụ huyết trùng ở chim trĩ
Đặc điểm của bệnh: Bệnh tụ huyết trùng là một bệnh truyền nhiễm cấp tính của chim trĩ cũng như các loại gia cầm khác do vi khuẩn Pasteurell aviseptica gây ra.
Ở Việt Nam, bệnh thường xảy ra vào mùa mưa, những thời điểm giao mùa, gây chết nhiều chim, gia cầm nuôi tập trung của gia đình. Bệnh thường xẩy ra lẻ tẻ, tỷ lệ ốm không cao nhưng chết rất cao.
Nguyên nhân: Vi khuẩn Pasteurella aviseptica là một loại cầu trực khuẩn nhỏ hai đầu tròn, hình trứng hoặc hình bầu dục. Vi khuẩn có sức đề kháng yếu: Trong đất khô, có nhiều ánh sáng vi khuẩn sống được 1 – 2 ngày, ở nhiệt độ 600C – 800C vi khuẩn bị tiêu diệt trong 10 phút.
Các chất sát trùng thông thường rất dễ tiêu diệt vi khuẩn: axitphenic 5% trong 1 phút, nước vôi 10% trong 3 – 5 phút… Nhưng trong đất ẩm, nền chuồng, chất độn chuồng, trong ao tù nước đọng, vi khuẩn có thể tồn tại lâu. Mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể chim trĩ qua đường tiêu hoá và hô hấp, do chim ăn phải thức ăn, nước uống nhiễm bệnh hoặc hít phải bụi ngoài không khí có mầm bệnh…
- Cơ chế gây bệnh: Vi khuẩn sau khi xâm nhập vào cơ thể chim nhưng nó không gây bệnh vì giữa vi khuẩn và sức đề kháng của cơ thể ở trạng thái cân bằng. khi sức đề kháng của con vật giảm sút do các yếu tố stress trong chăn nuôi: Chim bị nhiễm lạnh, cảm nóng do thời tiết thay đổi đột ngột, do vận chuyển đường xa, chuồng nuôi chật trội, điều kiện vệ sinh kém…Hoặc do những tác động quá mạnh như chim đẻ trứng, chim trống vừa đạp mái. Qúa trình bệnh còn phụ thuộc vào độc lực của vi khuẩn, nếu vi khuẩn có độc lực cao nó sẽ xâm nhập vào máu gây bại huyết và chết nhanh, nếu vi khuẩn có độc lực vừa nó cư trú ở một số cơ quan nhất định như: Gan, phổi gây viêm, hoại tử . Vi khuẩn có độc lực yếu, nó cư trú ở một số cơ quan và gây bệnh mãn tính.
Triệu chứng bệnh:
- Giai đoạn cấp tính chim chết đột ngột với tỷ lệ cao. Chúng có trạng thái mỏi mệt, mào tím tái, đi lại chậm chạp, liệt chân hay liệt cánh. Phân chảy thất thường có màu trắng loãng hoặc trắng xanh, đôi khi có máu tươi, thở khó, chảy nước mũi. Giai đoạn 4 – 5 ngày tích sưng, mũi sưng, viêm khớp và bại liệt, viêm kết mạc.
Phòng bệnh: Tiêm phòng bằng vacxin theo quy trình. Ngoài ra phòng bằng kháng sinh dùng một trong các loại sau: Cosumix 2g/lit nước, Tetracylin 1g/4 lít, Flumequin, Sunfamerazin, Ery – Colis liều 20mg/kg thể trọng (hoặc 1g/lít nước). Cần chú ý vệ sinh chuồng và dụng cụ để giảm khí độc và mật độ vi khuẩn có trong chuồng nuôi.
Điều trị bệnh: Các thuốc trên dùng tăng liều gấp đôi và sử dụng từ 3-5 ngày, ngoài ra nếu bệnh nặng tiêm Streptomycin kết hợp với Kanamycin với liều từ 50 – 100mg/kg thể trọng trong 3 ngày, hoặc Gentamycin kết hợp Ampicillin tiêm bắp 50mg/kg thể trọng trong 3 ngày.
Bệnh cầu trùng ở chim trĩ
Nguyên nhân gây bệnh: Bệnh cầu trùng do đơn bào Eimeria gây ra, thuộc nhóm ký sinh trùng. Một số loài chính gây thiệt hại đáng kể như: E. tenella, E. acervulina, E. necatrix, E. axima, E. brunetti …
Noãn nang cầu trùng có sức đề khánh tương đối cao ở ngoại cảnh. ở điều kiện bình thường nó có thể tồn tại hàng tháng, ánh sáng mặt trời có thể tiêu diệt được noãn nang nhưng rất chậm, noãn nang cầu trùng ít mẫn cảm với các chất sát trùng, nhưng rất mẫn cảm với nhiệt độ. Ở 600C nó bị tiêu diệt trong vài phút, ở nhiệt độ máy ấp cũng có thể tiêu diệt được noãn nang.
Triệu chứng bệnh:
Bệnh cầu trùng thường diễn ra ở 3 thể sau:
- Cầu trùng manh tràng: Bệnh hay gặp ở chim con dưới 2 tháng tuổi, triệu chứng nặng hay nhẹ còn phụ thuộc vào số lượng noãn nang mà chim ăn phải. Nếu nhiễm bệnh sẽ phát ra nhanh và tỷ lệ chết cao. Chim ủ rũ, chậm chạp, lông xù, bỏ ăn, uống nhiều nước, phân màu đỏ (có máu tươi) hoặc màu sôcôla. Mào nhợt nhạt bệnh kéo dài 24 ngày, chim có thể chết hàng loạt nếu như không có biện pháp can thiệp kịp thời.
- Cầu trùng ruột non: chim bị bệnh ủ rũ chậm chạp, lông xù, cánh rã, phân chảy, phân nhầy đôi khi lẫn máu. Tỷ lệ chim ốm và chết thấp. Bệnh có thể ở dạng mạn tính chim gầy, chậm lớn, chết rải rác kéo dài.
- Cầu trùng ruột già: Bệnh thường nhẹ, chim ủ rũ kém ăn, phân chảy, phân nhầy đôi khi có lẫn máu, tỷ lệ đẻ giảm.
Điều trị bệnh:
- Không để nền chuồng ẩm ướt
- Dọn sạch phân và thường xuyên pha nước hoặc trộn vào thức ăn thuốc chống cầu trùng như MARZURILCOC, MARCOC-E.COLI .. .
- Thuốc phòng và chữa cầu trùng cần thay đổi theo từng thời kỳ để tránh cầu trùng thích ứng với loại thuốc đó.
Bệnh về đường hô hấp mãn tính (CRD: Chronic Respiratory Disease) của chim trĩ
Nguyên nhân gây bệnh: Có nhiều nguyên nhân gây nên bệnh về đường hô hấp cho chim trĩ như (viêm thanh khí quản truyền nhiễm, viêm phế quản phổi, nấm phổi …) Chim có hiện tượng thở khò khè, chảy nước mũi, thở ngáp rồi chết.
Tuy nhiên tỷ lệ chim mắc bệnh viêm phế quản truyền nhiễm ( CRD) là rất cao. Bệnh này do một loại vi khuẩn có tên Mycoplasma galliseptium gây ra. – Mycoplasma ở trong cơ thể chim và gây bệnh khi có tác nhân gây stress như thời tiết thay đổi đột ngột, chế độ dinh dưỡng kém, tiêm ngừa… Mycoplasma ch sống được 1-3 ngày khi đã ra khỏi cơ thể (ở trong phân, dụng cụ chăn nuôi), trong dịch nhầy chúng tồn tại lâu hơn (khoảng 45 ngày) trong lòng đỏ trứng tồn tại đến 18 ngày.
Hầu hết các chất sát trùng đều có khả năng diệt Mycoplasma như: Phenol, formol, propiolactone, methiolate, chế phẩm sát trùng chuồng trại Saviod của công ty thuốc thú y Safa, Biodine của công ty Bio vv…
Đường lây truyền:
- Chim mắc bệnh bài thải vi khuẩn vào không khí, chim bệnh truyền cho chim khỏe khi ở chung đàn hay cùng chuồng trại. Dụng cụ chăn nuôi, thức ăn nhiễm vi khuẩn cũng là nguồn gây bệnh.
- Một đường lan truyền bệnh nguy hiểm nữa là mầm bệnh có thể truyền qua cho thế hệ sau do trứng đã bị nhiễm trùng.
- Chim khỏi bệnh nhưng vẫn còn mang trùng
Triệu chứng của bệnh:
- Bệnh hay xảy ra lúc đàn chim được 4-8 tuần, thông thường kết hợp E.Coli-CRD (C-CRD) với các triệu chứng giảm ăn, chảy nước mũi, viêm xoang mũi, thở khò khè, viêm kết mạc mắt, chảy nước mắt, sưng mặt, chim ủ rũ, kém ăn và chậm lớn.
- Trên chim trưởng thành – chim đang đẻ trứng: Bệnh phát ra khi có stress như thay đổi thời tiết đột ngột, tiêm phòng, chuyển chuồng, … Các triệu chứng chính vẫn là chảy nước mũi, thở khò khè, ăn ít, chim trở nên gầy ốm, chim đẻ giảm sản lượng trứng, chim con yếu, tỷ lệ ấp nở kém.
Phòng bệnh:
- Vệ sinh chuồng trại, vệ sinh máy ấp thật tốt và bằng các loại thuốc sát trùng.
- Nuôi chim với mật độ vừa phải, cần lưu ý đến tiểu khí hậu chuồng nuôi, trong đó thông thoáng và mát là 2 yếu tố quan trọng, chuồng trại thiếu thông thoáng, nồng độ các loại khí độc như: NH2 , H2S, Clor, CO2 cao, các khí này gây các tổn hại nhất định ở xoang mũi, thanh khí quản… Sẽ tạo điệu kiện cho sự bùng nổ CRD và các bệnh hô hấp khác.
- Cung cấp đầy đủ các loại vitamin nhất là vitamin A, vitamin C, các chất điện giải nhằm tăng cường sức đề kháng của đàn chim.
- Sử dụng kháng sinh hoặc vaccin phòng bệnh. Tuy nhiên, việc tiêm phòng CRD đôi khi có thể làm cho đàn chim phát bệnh nếu trước đó đã bị nhiễm CRD.
- Nhiều nhà chăn nuôi thường dùng kháng sinh để phòng bệnh, sau một thời gian dài sử dụng, nhiều kháng sinh trước đây nhạy cảm với Mycoplasma nay đã bị đề kháng như Tylosin, Erythromycine, Spiramycin, Oxytetracycline…
Điều trị:
- Sử dụng ngay kháng sinh nhạy cảm với CRD. Đặt biệt cần chọn lựa các chế phẩm kháng sinh kết hợp vừa có tác dụng với Mycoplasma vừa có tác dụng trên vi trùng E.Coli.
- Sử dụng thuốc kháng sinh DOXY – HENCOLI với liều lượng theo khuyến cáo của nhà sản xuất để điều trị bênh hen ghép E.coli.
- Ngoài ra để điều trị bệnh có hiệu quả hơn cần kết hợp với sử dụng chất điện giải, men tiêu hoá, và các loại vitamin nhằm tăng sức khánh bệnh cho đàn chim.
Bệnh tiêu chảy do Ecoli ở chim trĩ
Nguyên nhân gây bệnh: Bệnh do Ecoli phát triển mạnh trong đường tiêu hóa của chim vì stress do vận chuyển hoặc xáo trộn đàn, tăng tiết độc tố vào máu làm chim bị trúng độc.
Vi khuẩn E.coli thường trú trong đường tiêu hóa. Vi khuẩn có sẵn ở ngoài môi trường. Tuy nhiên có một số Serotype gây bệnh. Bệnh thường xảy ra ở giai đoạn chim con hay nhiễm kế phát ngay sau bệnh CRD. Vì vậy có nhiều thể bệnh khác nhau.
Tỷ lệ bệnh và chết tùy thuộc vào từng vùng, từng trại có biện pháp và vệ sinh khác nhau. Bệnh thường xảy ra ở chim 1 – 120 ngày tuổi, đặc biệt ở chim con 1 – 10 ngày và 4 – 5 tuần tuổi khi vận chuyển đi xa và bị lạnh.
Đường lây truyền:
- Truyền lây qua trứng do cơ thể mẹ bị nhiễm bệnh.
- Truyền lây qua đường hô hấp do chim bị bệnh CRD làm cho nêm mạc phế quản bị tổn thương, vi khuẩn xâm nhập qua vết thương vào cơ thể.
- Truyền lây qua vỏ trứng do bị nhiễm bẩn từ phân hoặc môi trường ở chuồng trại bị nhiễm trùng.
- Lây qua thức ăn và nước uống bị nhiễm trùng.
Triệu chứng của bệnh:
Do con đường lây nhiễm khác nhau, vi khuẩn E.coli gây bệnh với các thể khác nhau như:
- Thể viêm túi khí
- Kế phát các bệnh đường hô hấp như CRD, tụ huyết trùng, viêm phế quản và khí quản truyền nhiễm.
- Vi khuẩn E.coli có thể bị hít vào trong những mô đã bị tổn thương của đường hô hấp. Vi khuẩn phát triển rất nhanh trong cơ thể và định hướng vào các túi khí. Túi khí bị dầy lên có màu trắng như bã đậu làm cho con vật khó thở. Vi khuẩn có thể lan ra các cơ quan phủ tạng như tim, gan, và các túi khí vùng bụng làm tăng sinh các màng túi khí.
- Chất dịch viêm fibrin tiết ra gây viêm dính màng bao tim, màng bao gan và màng phúc mạc. Kết quả làm cho tuần hoàn tim bị đình trệ, nhu động ruột bị giảm, tỷ lệ chết lên đến 8-10%.
- Thể bại huyết
- Do vi khuẩn xâm nhập vào máu qúa nhiều, trong điều kiện sức khỏe chim kém như khi vận chuyển, tiêm phòng, thức ăn thay đổi, giai đoạn đẻ cao và kế phát sau các bệnh hô hấp.
- Triệu chứng mệt mỏi, không thích đi lại.
- Chết đột ngột không rõ bệnh tích. Tỷ lệ chết nhanh này chiếm từ 1-2%.
- Bệnh tích ch rõ ở những con bị bệnh kéo dài từ 3-4 ngày trở đi: Màng tim, gan và xoang phúc mạc bị viêm dính vào tim, gan và ruột màu sắc trắng đục.
- Thể chết phôi
- Nhiễm trùng E.coli là nguyên nhân gây hiện tượng chết phôi. Vi khuẩn gây viêm đường sinh dục. Vì vậy khi trứng đi qua sẽ bị nhiễm E.coli làm cho phôi chết trước khi nở, hoặc chết sau khi nở.
Phòng bệnh:
- Phòng bằng vacxin Neotyphomix (Toi + E.coli): Đây là loại vacxin chết nhũ dầu do Công ty Rhone Merieux Pháp sản xuất. Quy trình phòng bệnh như sau: – Chủng lần thứ 1 lúc 2 tuần tuổi. Tiêm bắp hay dưới da liều 0,2-0,3 cc/con. – Chủng lấn thứ 2 lúc 5-7 tuần tuổi. tiêm liều 0,3 cc/con. Hoặc trước khi đẻ 2 tuần (đối với vùng an toàn dịch). Vacxin sẽ tạo miễn dịch cho chim mẹ và truyền kháng thể qua trứng cho chim con, phòng bệnh được 1-3 tuần kể từ lúc nở.
- Phòng bằng thuốc kháng sinh: Ta có thể dùng một trong những loại thuốc kháng sinh như sau:
- Ampicillin: Uống liều 100- 150 mg/kg thể trọng (pha 1g/1,5lít nước). Dùng liên tục 1-5 ngày tuổi. Đối với chim lớn và chim đẻ dùng liên tục 3 ngày/tháng sau khi tiêm phòng các loại vacxin hoặc sau khi điều trị bệnh CRD.
- Chloramphenicol: Uống liều 50-60 mg/kg thể trọng/ngày. Liên tục 1-7 ngày sau khi nở.
- Neomycin: Cho uống liều 50-60 mg/kg thể trọng/ngày. liệu trình như trên.
- AntiColi B hay ColiCopha: Cho uống liều 20 mg/kg thể trọng/ngày (1g/lít nước).
- Phòng bằng biện pháp vệ sinh:
- Vệ sinh chuồng trại định kỳ để giảm hàm lượng vi khuẩn có trong môi trường.
- Chuồng trại phải thông khí để các khí độc như Amoniac v.v… không gây độc cho cơ thể.
- Định kỳ kiểm tra vi khuẩn và làm kháng sinh đồ để xác định vi khuẩn quen thuốc.
- Các biện pháp phòng bệnh chuồng trại, lò ấp, trứng v.v…
Trị bệnh:
- Dùng một trong những loại thuốc kháng sinh trị bệnh như Tecoli, Cosumix, ColiCopha, AntiColi B, Imequil, Flumequil, Inoxyl, Coli SP.
- Thuốc dùng cho chim đẻ tiêm loại Bencomycin S, Biotex, Biocolistin là tốt nhất vì thuốc không ảnh hưởng tới tỷ lệ đẻ trứng.
Bệnh đau mắt (sưng mắt) ở chim trĩ
Nguyên nhân gây bệnh: Có nhiều nguyên nhân dẫn tới bệnh đau mắt ở chim trĩ trong đó có yếu tố môi trường nuôi không sạch sẽ, do chim thường xuyên tiếp xúc với các loại khí độc trong chuồng nuôi như, NH3, H2S, CO2…, những khí này kích ứng niêm mạc mắt làm cay mắt, chảy nước mắt.
Triệu chứng:
- Khi chim bị bệnh có biểu hiện rất rõ ràng là mắt chim sưng to có thể sưng 1 hoặc 2 má, mắt có màng đục, chảy nước mắt có lẫn bọt khí.
- Nếu bị nặng chim không mở được mắt và bên trong có nhiều bã đậu màu trắng.
- Chim có biểu hiện ủ rũ, kém ăn, chim bị mù do đó không thể tự ăn uống được mà chết.
Điều trị:
- Bắt từng con một dùng bông và nước muối sinh lý rửa mắt ( có thể mua ở hiệu thuốc tây).
- Dùng thuốc nhỏ mắt của người nhỏ cho mỗi con từ 3 -5 giọt
- Lưu ý nhỏ khoảng 3 – 4 giọt thuốc nhỏ mắt vào phía đầu cánh chim vì khi bị đau mắt chúng thường dụi mắt vào lông cánh. Mục đích là để thuốc tiêu diệt những tác nhân gây bệnh ở trên cánh tránh bệnh phát triển nặng hơn.
- Kết hợp sử dụng vitamin A,D,E, B- complex để nâng cao sức đề kháng của chim
- Nếu chim đau mắt do giun sán phải tiêm thuốc điều trị ký sinh trùng.
Bệnh Gumboro ở chim trĩ
Triệu chứng: Thể lâm sàng: Ở gà 3-6 tuần tuổi và có thể trên 10 tuần tuổi. Biểu hiện đầu tiên là cơ vòng hậu môn luôn co bóp, sốt cao, bỏ ăn và khát nước, sau ỉa chảy, gà chết cao nhất ở ngày thứ 3 sau đó giảm hẳn mà không cần can thiệp. Phân loãng có màu trắng, lẫn máu; gà ủ rũ, lông xù, xã cánh, nằm quẹo rồi chết.
- Thể ẩn thường xảy ra ở gà dưới 03 tuần tuổi gây suy giảm miễn dịch. Vì thể hiện lâm sàng không rõ nên dễ nhầm với các bệnh khác nhất là bệnh Newcastle.
Cách phòng bệnh: Nhập gà ở nơi không có bệnh và đã tiêm phòng bệnh Gumboro ở đàn gà mẹ. Nuôi cách ly gà mới nhập.
- Thực hiện việc tiêm phòng theo đúng lịch quy định của nhà sản xuất. Nuôi gà tập trung trong dân tốt nhất nên dùng vaccine nhỏ mắt, cho uống hay tiêm dưới da vào 1 ngày, 7 ngày và 14 ngày tuổi. Những nơi trước đây đã có dịch nên tiêm phòng liều thứ tư vào 21 ngày tuổi.
Bệnh cúm gia cầm ở chim trĩ
Triệu chứng: Rối loạn về hô hấp là chủ yếu. Gà biểu hiện khó thở, xoang mũi và xoang miệng bị viêm có nhiều dịch nhầy lẫn máu, mào tím tái, đầu bị sưng phù. Chảy máu dưới da là đặc trưng của bệnh cúm gà. Sản lượng trứng giảm rõ rệt, tỷ lệ chết thấp.
Cách phòng bệnh: Thực hiện tiêm phòng bằng vacxin H5N1. Hiện nay chưa có thuốc điều trị bệnh cúm. Khi phát hiện gà bị bệnh cần báo ngay cho Trung tâm Nông nghiệp huyện hoặc cán bộ thú y xã để được hướng dẫn xử lý kịp thời.
Bệnh bạch ly ở chim trĩ
Triệu chứng: Gà con bỏ ăn, ủ rũ, lông xơ xác, nằm chết chất đống trong chuồng, tỷ lệ mắc bệnh cao tới 40%. Triệu chứng điển hình là ỉa phân trắng. Phân dính vào lông quanh hậu môn. Gà con mắc bệnh còi cọc, chậm lớn và thường bị què do viêm khớp. Trứng bị nhiễm Salmonella có tỷ lệ ấp nở thấp. (Salmonella là vi khuẩn gây ra bệnh bạch lỵ)
Cách phòng trị:
- Gà giống hay trứng phải được nhập từ trại gà không có bệnh. Tiêu độc máy ấp vào trứng trước khi đem ấp.
- Dùng thuốc phòng bệnh ngay sau khi gà mới nở. Có thể sử dựng một trong số các loại thuốc sau: Chlortetra-C 5g/3kg thức ăn, Ampi-septol 4g/2kg thức ăn, Gentacostrim 1g/2lít nước uống.
Nhận xét
Đăng nhận xét